* “Văn chương lý luận như gang thép/Cốt cách tinh thần tựa trúc mai”
Những lời kính trọng và cảm phục của nhà thơ Tú Mỡ đối với Giáo sư Đặng Thai Mai, có thể coi là nét khái quát về tài năng và đức độ của nhà cách mạng, nhà trí thức toàn tài của dân tộc.
Giáo sư Đặng Thai Mai (1902-1984)
Giáo sư – nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai sinh ngày 25/12/1902 tại làng Lương Điền, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, vùng đất giàu truyền thống yêu nước, cách mạng và khoa bảng, tiêu biểu chính là dòng họ Đặng của Giáo sư. Thừa hưởng vốn tri thức và văn hóa gia giáo của hai bên gia đình nội, ngoại, lại là người thông minh, chăm chỉ học tập, cậu bé Đặng Thai Mai đã sớm hình thành lòng yêu nước thương nòi. Cũng vì thế mà cuộc đời và sự nghiệp của ông sau này đã trở thành hình mẫu tiêu biểu cho sự gắn bó giữa trí thức và cách mạng.
Năm 1925, Đặng Thai Mai vào học Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương tại Hà Nội. Thời gian này, ông bắt đầu tham gia các phong trào cách mạng, như đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Năm 1928, ông trở về quê hương, trở thành giáo sư Trường Quốc học Huế.
Năm 1929, Đặng Thai Mai ra Hà Nội. Cùng với những nhà trí thức cách mạng như Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Phan Thanh Giản, Hoàng Minh Giám… ông sớm bước vào cuộc đấu tranh cách mạng, khẳng định văn học nghệ thuật là một vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa chống thực dân đế quốc. Năm 1935, ông cùng các bạn lập ra Trường tư thục Thăng Long, tiếp đó là Hội truyền bá chữ Quốc ngữ, với mục đích nâng cao dân trí, chống lại sự nô dịch về văn hóa của nhà cầm quyền thực dân, lớn hơn là truyền bá tinh thần yêu nước, lòng tự cường dân tộc cho các thế hệ trẻ.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Giáo sư Đặng Thai Mai được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp mời đảm nhiệm phụ trách công tác giáo dục nước nhà. Không phụ lòng tin tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, để đối phó với “giặc dốt”, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đặng Thai Mai đã cho thành lập Nha bình dân học vụ, mở các lớp bình dân học vụ trên khắp các xóm làng, nhằm nhanh chóng nâng cao dân trí. Ông hiểu rõ người Việt Nam phải có kiến thức, mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà. Muốn làm được điều đó trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Với sự nỗ lực phi thường của Chính phủ và toàn thể nhân dân, chỉ trong vòng 1 năm, từ tháng 8/1945 đến tháng 8/1946, phong trào bình dân học vụ dưới thời Bộ trưởng Đặng Thai Mai đã mở được gần 75.000 lớp học, phát triển 96.000 giáo viên, xóa mù chữ cho 2,5 triệu người Việt Nam. Đó là một trong những nguồn lực vô hình làm nên sức mạnh giúp nhân dân Việt Nam vượt qua cuộc kháng chiến trường kỳ, bảo vệ thành công nền độc lập non trẻ của đất nước.
GS. Đặng Thai Mai và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh tư liệu
Trong 82 năm sống và cống hiến, Giáo sư Đặng Thai Mai đã giữ nhiều trọng trách như: Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Hiệu trưởng kiêm Chủ nhiệm khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Viện trưởng Viện Văn học. Giáo sư Đặng Thai Mai được coi là đầu tàu của các văn nghệ sĩ trong kháng chiến. Tại Đại hội văn hóa toàn quốc lần thứ hai, năm 1948, ông được bầu giữ chức Chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc, tiền thân của Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật ngày nay. Ông là người tập hợp, cổ vũ, động viên đội ngũ văn nghệ sĩ trở thành những nghệ sĩ – chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng và văn hóa, góp phần đưa nền văn học nghệ thuật trong thời kỳ kháng chiến phát triển với những tác phẩm để đời, cổ vũ tinh thần chiến sĩ đồng bào trong công cuộc đấu tranh cách mạng, giành độc lập cho dân tộc.
Ông cũng là người tham gia sáng lập ra Hội Nhà văn Việt Nam. Trên cương vị là nhà lãnh đạo, Giáo sư đã tổ chức, đào tạo được một thế hệ văn nghệ sĩ đứng vững trên lập trường nhân dân, yêu nước để sáng tạo; đào tạo một đội ngũ phê bình giàu bản lĩnh cách mạng, nhạy bén, kịp thời phát hiện và đấu tranh bài trừ những tư tưởng, khuynh hướng sai lầm, nguy hại đối với sự nghiệp cách mạng. Ông cũng góp phần quan trong lập thành luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối chiến lược phát triển toàn diện nền văn học Việt Nam, đồng thời đóng góp không nhỏ trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam ra với bạn bè thế giới.
* Người mở đường cho văn học cách mạng và ngành Ngữ văn Việt Nam
Hơn 60 năm hoạt động không mệt mỏi cho cách mạng cho văn hóa giáo dục nước nhà, với tư cách là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, kể từ những bài viết đầu tiên trên các tờ báo “Thanh Nghị”, “Tri Tân”, “Văn Mới” năm 1940, đến năm 1985, Giáo sư Đặng Thai Mai đã để lại cho ngành nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn một di sản quý, gồm hàng chục công trình, hàng nghìn trang viết có giá trị. Mỗi công trình của ông, dù lớn hay nhỏ, đều in dấu mốc quan trọng của từng thời kỳ hình thành và phát triển ngành nghiên cứu Ngữ văn ở nước ta và có ý nghĩa lớn đối với xã hội.
Từ đầu những năm 1930, ông đã tích cực viết bài cho nhiều tờ báo của Đảng bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp. Ông còn tìm đến những hình thức biểu đạt khác như thơ, văn, nghị luận… tất cả đều toát lên ý thức về vai trò cải tạo xã hội của văn học nghệ thuật, vai trò của Đảng đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông đã dùng văn học để cổ vũ quần chúng chiến đấu, nói lên khát vọng của thời đại, tuyên truyền cho sự tất thắng của cách mạng.
Đặc biệt sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Giáo sư Đặng Thai Mai luôn không ngừng suy tư về vấn đề tu dưỡng nghệ thuật. Trên tạp chí Tiền Phong của Hội Văn hóa Cứu quốc (số 11 ngày 15/5/1946), ông viết: “Sự tu dưỡng nghệ thuật là một nhật lệnh thượng khẩn trong tình thế văn hóa hiện nay… Trong công cuộc đấu tranh trên chiến tuyến văn hóa, một nghệ thuật độc đáo, sắc sảo, sâu xa là một sự thắng lợi… Dân tộc Việt Nam đang chờ nhà văn, nhà nghệ sĩ của non nước”.
Một năm sau khi bản Đề cương văn hóa (1943) ra đời, Đặng Thai Mai đã cho ra mắt tác phẩm “Văn học khái luận”, được đánh giá là công trình lý luận mác xít đầu tiên được viết một cách có hệ thống, giới thiệu và luận giải về các nguyên lý quan trọng nhất của văn học cách mạng. Giáo sư Hà Minh Đức cũng nhận xét: “Văn học khái luận”, là cuốn lý luận văn nghệ đầu tiên được viết theo quan điểm cách mạng, phê phán các lý thuyết duy tâm về văn học nghệ thuật, góp phần khẳng định đường lối của Đảng trong văn nghệ. Ông chỉ rõ một chân lý trong nghệ thuật, phải ở độ chín, thật chín mới sáng tạo, “đắc đạo mới hành đạo”.
Tác phẩm của Giáo sư Đặng Thai Mai
Bìa tác phẩm “Giảng văn Chinh phụ ngâm” của Giáo sư Đặng Thai Mai
Giáo sư Đặng Thái Mai có nét lịch lãm, thâm trầm của một nhà nghiên cứu từng trải, và có cả cái say mê, trẻ trung của lứa tuổi thanh xuân. Những người thân thiết gần gũi với ông kể lại rằng, trong cuộc sống hàng ngày, ông bình dị, dễ gần, cởi mở. Nhưng cũng chính trong con người ấy, khi bắt tay làm bất cứ công việc gì, cũng đều nghiêm túc và nhiệt thành.
Ngay từ khi giới nghiên cứu văn học nước ta còn loay hoay tìm đường, công trình “Giảng văn Chinh phụ ngâm” (1950) của Giáo sư Đặng Thai Mai đã mang “hơi hướng tiếp cận thi pháp học”, một phương pháp nghiên cứu hiện đại mà mãi đến sau này, khoảng những năm 80 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu nước ta mới bắt đầu nghiên cứu, ứng dụng.
Tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây, nhưng người con ưu tú của xứ Nghệ vẫn luôn kiên trì theo đuổi những đề tài dài hơi mang đậm tinh thần dân tộc. Ba tập “Trên đường học tập và nghiên cứu” (1959, 1965 và 1973) là cuộc tìm kiếm “từ tốn” của một học giả “yêu chân lý và con người”. Bên cạnh đó, những công trình nghiên cứu, tiếp cận văn học Việt Nam và một số nền văn học lớn khác trên thế giới, như Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Trung Quốc… đều thể hiện kiến thức uyên bác của một người yêu tri thức, ham mê khám phá và sáng tạo.
Trong suốt cuộc đời mình, dù phải chia sẻ thời gian, tâm lực cho nhiều công việc khác nhau, nhưng Giáo sư Đặng Thai Mai vẫn dành tâm huyết để giảng dạy, đào tạo đội ngũ kế cận sau này. Giáo sư từng chia sẻ rằng, đối với ông, công trình lớn nhất, có giá trị hơn cả là công trình đào tạo biết bao môn sinh thành đạt.
Không chỉ góp sức “trồng người”, ông còn sửa hàng trăm bản thảo của các nhà xuất bản gửi đến xin ý kiến. Ai đã thấy những bản nhận xét, góp ý kiến, những trang ông chữa móc nối vòng vèo mới thấy hết những công lao vun trồng thầm lặng nhưng vô giá của vị Giáo sư đáng kính.
Sự nghiệp, phong cách và con người Giáo sư Đặng Thái Mai là sự kết tinh, hội tụ của nhiều nền văn hóa và phong cách, sự gặp gỡ của cổ đại và hiện đại, của Á và Âu, của văn hóa miền Nam và miền Bắc. Dù là sự kết tinh nào cũng đều góp phần tỏa sáng một tấm gương về tài năng, đạo đức và nhân cách của một người trí thức cách mạng, một nhà văn hóa với sự nghiệp sáng tạo to lớn, một người thầy được tôn kính muôn đời:
“Thâu đêm trang sách mở…
Anh chăm những luống xanh
Cho thời đại con người…”
(Nhà văn Nguyễn Đình Thi).
Giáo sư Đặng Thai Mai mất ngày 25/9/1984, đến nay đã 40 năm.
Bốn thập niên qua, dấu ấn của ông để lại và phẩm cách của một trí thức nhiệt thành luôn được các thế hệ đi sau nhắc tới.
Nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo đã được tổ chức. Các ý kiến đều thống nhất khẳng định: Giáo sự Đặng Thai Mai là nhà văn hóa lớn, nhà sư phạm mẫu mực, có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn nghệ và học thuật nước nhà. Ông thuộc về một trong những người mở đường, đặt nền móng cho nền mỹ học, lý luận và phê bình văn học ở Việt Nam.
Thu Hạnh (tổng hợp)